Lịch sử hoạt động Lockheed_U-2

Hoa Kỳ

Thử nghiệm U-2 trên chiếc USS America CV-66.

Dù cả Không quân và Hải quân Hoa Kỳ đều sẽ sử dụng U-2, ban đầu nó chỉ là một chiến dịch của CIA, được điều hành qua Văn phòng Trinh sát Khoa học. Vì những rắc rối chính trị về một máy bay quân sự xâm nhập vào không phận của một quốc gia, chỉ những chiếc U-2 của CIA tiến hành những phi vụ kiểu này. Các phi công buộc phải từ chức khỏi các cấp bậc quân sự của họ trước khi gia nhập như một nhân viên dân sự của CIA, một quá trình được họ gọi là "tắm cho cừu".[3]

Như thường xảy ra với các thiết kế máy bay mới, có nhiều tai nạn trong hoạt động, một số vụ gây chết người.[8] Vụ tai nạn có thiệt hại nhân mạng đầu tiên diễn ra ngày 15 tháng 5 năm 1956, khi phi công đã làm chòng chành chiếc máy bay trong một cuộc diễn tập hậu cất cánh dự định để nhả các bánh lắp ngoài đầu cánh. Vụ thứ hai xảy ra ba tháng sau đó, ngày 31 tháng 8 khi phi công làm chòng chành chiếc máy bay ngay sau khi cất cánh. Hai tuần sau đó, một chiếc máy bay thứ ba đã vỡ ra từng mảnh khi lấy độ cao, cũng làm phi công thiệt mạng. Có một số vụ tai nạn không thiệt hại nhân mạng, gồm ít nhất một vụ khiến mất một máy bay.

Chiếc U-2 được công chúng chú ý khi phi công của CIA Francis Gary Powers bị bắn hạ trên lãnh thổ Liên Xô ngày 1 tháng 5 năm 1960, gây ra vụ việc U-2.

Ngày 14 tháng 10 năm 1962, một chiếc U-2 thuộc Phi đội Trinh sát Chiến lược số 4080, có căn cứ tại Căn cứ Không quân Laughlin gần Del Rio, Texas, do Thiếu tá Richard S. Heyser điều khiển, đã chụp ảnh quân đội Liên Xô lắp đặt các tên lửa đầu đạn hạt nhân tại Cuba, gây ra vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba. Heyser kết thúc chuyến bay này tại McCoy AFBOrlando, Florida, nơi phi đội 4080 thiết lập vị trí hoạt động cho U-2 trong suốt thời gian cuộc khủng hoảng. Ngày 27 tháng 10 năm 1962, khi bay từ McCoy AFB, một chiếc U-2 đã bị bắn hạ trên lãnh thổ Cuba bởi hai tên lửa đất đối không SA-2 Guideline, làm thiệt mạng phi công, Major Rudolf Anderson, Jr.[9] Anderson sau này đã được trao Huân chương Chữ thập Không quân hạng nhất.[9]

Năm 1963, CIA khởi động dự án Whale Tale để phát triển những chiếc U-2G hoạt động trên tàu sân bay để khắc phục các hạn chế về tầm hoạt động. Trong quá trình phát triển, các phi công CIA đã cất cánh và hạ cánh những chiếc U-2G trên tàu sân bay USS Ranger và các tàu khác. Chiếc U-2G chỉ được sử dụng hai lần. Cả hai chuyến bay đều xuất phát từ USS Ranger vào tháng 5 năm 1964 để quan sát một cuộc thử nghiệm bom nguyên tử của Pháp tại MoruroaPolynesia thuộc Pháp.[10][11]

Đầu năm 1964, Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược (SAC) đã gửi một biệt đội U-2 từ phi đội 4080 tới Miền nam Việt Nam để thực hiện các phi vụ trinh sát độ cao lớn trên bầu trời Miền bắc Việt Nam. Ngày 5 tháng 4 năm 1965, những chiếc U-2 thuộc 4028th SRS (Phi đội Trinh sát Chiến lược) đã chụp ảnh các trận địa SAM-2 gần Hà Nội và cảng Hải Phòng. Ngày 11 tháng 2 năm 1966, phi đội 4080 được đổi tên lại thành 100th SRW và chuyển tới Davis-Monthan AFB, Arizona. Biệt đội SRS tại Căn cứ Không quân Biên Hoà, Nam Việt Nam, được đổi tên lại thành 349th SRS.[12]

Thiệt hại duy nhất của chiếc U-2 trong hoạt động chiến đấu xảy ra ngày 8 tháng 10 năm 1966, khi Thiếu tá Leo Stewart, bay cùng Phi đội Trinh sát Chiến lược số 349, gặp các vấn đề về máy móc trên bầu trời miền bắc Việt Nam. Chiếc U-2 tìm cách quay trở lại miền nam Việt Nam và Stewart đã nhảy dù thoát ra an toàn. Chiếc U-2 đâm xuống đất gần Biên Hoà. Tháng 7 năm 1970, 349th SRS tại Biên Hoà dời sang Thái Lan và được đổi tên thành 99th SRS, và tiếp tục đóng ở đó cho tới năm 1976.[12]

Năm 1969, những chiếc U-2R lớn hơn cất cánh từ tàu sân bay USS America CV-66|6. Chương trình U-2 trên tàu sân bay được cho là đã ngừng lại sau năm 1969.[13]

Một trong những chiếc ER-2 của NASA bay trên sa mạc California. Một chiếc ER-2 của NASA đã lập kỷ lục thế giới về độ cao với mức trọng lượng của nó

Tháng 6 năm 1976, những chiếc U-2 thuộc 100th SRW được chuyển cho 9th SRW tại Căn cứ Không quân Beale, California, và sáp nhập với những chiếc SR-71 hoạt động ở đó. Khi Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược bị giải tán đầu thập niên 1990, phi đội được chuyển cho Bộ tư lệnh Không quân (ACC) mới và được đặt tên là Phi đội Trinh sát số 9 (9 RW).

Năm 1984, trong một cuộc tập trận lớn của NATO, Trung uý Không quân Hoàng gia Mike Hale đã ngăn chặn một chiếc U-2 ở độ cao 66,000 ft, nơi chiếc máy bay này từng được cho là an toàn không thể bị ngăn chặn. Hale đã lên tới độ cao 88,000 ft trên chiếc Lightning F3 của mình.[14]

Năm 1989, một chiếc U-2R thuộc 9 RW, Biệt đội 5, bay từ Căn cứ Không quân Patrick, Florida đã chụp ảnh thành công một lần phóng tàu con thoi cho NASA để hỗ trợ xác định nguyên nhân mất ngói chống nhiệt khi phóng đã được phát hiện trong các phi vụ đầu tiên thời hậu Challenger.

Ngày 19 tháng 11 năm 1998, một chiếc máy bay nghiên cứu ER-2 của NASA đã lập một kỷ lục thế giới với mức trọng lượng của nó (12,000 kg tới 16,000 kg) với độ cao trong chuyến bay ngang đạt 20,479m.[15][16]

Chiếc U-2 vẫn hoạt động tích cực hơn 50 năm sau chuyến bay đầu tiên của nó dù các vệ tinh trinh sát đã xuất hiện. Điều này chủ yếu bởi khả năng bay trực tiếp tới các mục tiêu chỉ sau một thời gian ngắn, việc các vệ tinh không thể làm. Chiếc U-2 đã tồn tại lâu hơn chiếc Mach 3 SR-71 thay thế cho nó, nghỉ hưu năm 1998.

Khả năng nghỉ hưu

Một tài liệu ngân sách mật được Lầu Năm Góc thông qua ngày 23 tháng 12 năm 2005 kêu gọi chấm dứt chương trình U-2 trước năm 2011, với một số chiếc được nghỉ hưu năm 2007.[17]

Tháng 1 năm 2006, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld thông báo treo việc nghỉ hưu phi đội U-2 như một cách cắt giảm chi phí, và như một phần của một chiến dịch tái tổ chức và tái định nghĩa phi cụ của Không quân trên diện rộng gổm cả việc loại bỏ toàn bộ ngoại trừ 56 chiếc B-52 và giảm bớt hoàn toàn phi đội F-117.[18]

Rumsfeld nói điều này sẽ không làm suy yếu khả năng thu thập thông tin tình báo của Không quân, nhiệm vụ sẽ do các vệ tinh và các máy bay trinh sát không người lái RQ-4 Global Hawk đảm nhiệm. Tuy nhiên, Quốc hội, ở thời điểm năm 2009, đã không thông qua việc cho nghỉ hưu những chiếc U-2 bởi không có hệ thống nào có khả năng thay thế nó. Những đề xuất cho U-2 nghỉ hưu đã gặp phải sự phản đối mạnh từ giới lãnh đạo quân sự bởi những thiếu hụt khả năng sẽ xảy ra nếu U-2 ngừng hoạt động.

Năm 2009, Không quân nói rằng họ có những kế hoạch kéo dài thời hạn nghỉ hưu của U-2 từ 2012 tới 2014 hay muộn hơn. Sự kéo dài này sẽ cho phép có nhiều thời gian hơn để loại RQ-4 Global Hawk có thể thay thế U-2.[19]

Trung Hoa Dân Quốc

Biểu tượng chính thức của Phi đội Mèo Đen

Một bên sử dụng U-2 khác là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), chủ yếu thực hiện những phi vụ trên bầu trời Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (PRC). Từ thập niên 1950, Không quân Đài Loan đã sử dụng máy bay RB-57A/D cho các phi vụ trinh sát vào Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, nhưng đã hai lần bị thiệt hại khi chiếc MiG-17 và tên lửa SA-2 SAM ngăn chặn thành công. Năm 1958, Trung Hoa Dân Quốc và chính quyền Mỹ đạt một thoả thuận thành lập Phi đội số 35, tên hiệu Phi đội Mèo Đen, gồm 2 chiếc U-2C tại Căn cứ Không quân Taoyuan ở phía bắc Đài Loan, một khu vực cách ly của căn cứ không quân. Để đánh lạc hướng ở thời điểm đó, đơn vị được thành lập dưới vỏ bọc các phi vụ nghiên cứu thời tiết ở độ cao lớn cho Không quân Đài Loan. Với chính phủ Mỹ, Phi đội số 35 và bất kỳ một nhân viên CIA/USAF nào được giao nhiệm vụ tại đơn vị đều được gọi là Detachment H (Biệt đội H) trên mọi giấy tờ. Nhưng thay vì dưới sự điều khiển thông thường của Không quân Mỹ, toàn bộ dự án này được gọi là Project RAZOR[20][21], và được điều hành trực tiếp bởi CIA với sự hỗ trợ của Không quân Mỹ, sau một cuộc tranh cãi dài giữa hai cơ quan. Và quy định chủ chốt là bất kỳ một phi vụ hoạt động nào của Phi đội 35 phải được cả Hoa Kỳ và tổng thống Đài Loan phê chuẩn trước.

Tổng cộng 26 trong số 28 phi công của Đài Loan đã được gửi tới Mỹ để huấn luyện từ năm 1959 tới năm 1973 tại Căn cứ Không quân Laughlin, Texas.[22] Tháng 7 năm 1960, CIA cung cấp cho Trung Hoa Dân Quốc hai chiếc U-2C và vào tháng 12 phi đội thực hiện phi vụ đầu tiên của mình trên lục địa Trung Quốc. Các quốc gia khác cũng bị phi đội số 35 trinh sát, như Bắc Triều Tiên[23], Bắc Việt Nam và Lào trong một số thời điểm, nhưng mục tiêu chính của Phi đội số 35 của Trung Hoa Dân Quốc là tiến hành các phi vụ trinh sát đánh giá khả năng hạt nhân của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Cho mục đích này các phi công của Đài Loan bay xa tới tận Gansu và các vùng xa xôi khác ở tây bắc Trung Quốc. Một số phi vụ, vì các yêu cầu của phi vụ và tầm hoạt động, được thêm một số yếu tố bất ngờ, khiến những chiếc U-2 của phi đội cất cánh từ hay hạ cánh xuống các căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á và Đông Á, như K-8(Kunsan) ở Hàn Quốc hay Tikhli ở Thái Lan, bên cạnh căn cứ chính của Phi đội số 35 tại căn cứ không quân Taoyuan ở Đài Loan, bởi mọi căn cứ không quân của Mỹ trong khu vực đều được coi là các sân bay khẩn cấp/thay thế thu hồi.

Tổng cộng, phi đội đã thực hiện khoảng 220 phi vụ[24], với khoảng một nửa trong số đó diễn ra trên lục địa Trung Quốc và năm máy bay đã bị bắn hạ, gồm ba vụ có thiệt hại nhân mạng và hai vụ khiến phi công bị bắt giữ, cộng sáu chiếc U-2 mất trong huấn luyện và sáu phi công thiệt mạng.[25][26] Năm 1968, phi đội U-2C/F/G của Đài Loan được thay thế bằng loại U-2R mới hơn. Tuy nhiên, cùng với cuộc chia rẽ Trung-Xô và sự xích lại giữa Hoa Kỳ và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, phi đội U-2 của Trung Hoa Dân Quốc ngừng vi phạm vào không phận Trung Quốc, và thay vào đó chỉ thực hiện các phi vụ trinh sát điện tử và chụp ảnh với các camera Trinh sát Tầm xa Gián tiếp (LOROP) mới trên chiếc U-2R khi bay trên hải phận quốc tế. Phi vụ cuối cùng của U-2 trên lục địa Trung Quốc diễn ra ngày 16 tháng 3 năm 1968. Sau đó, mọi phi vụ của máy bay U-2 đều giữ một khoảng đệm ít nhất 20 hải lý từ Trung Quốc.

Trong chuyến thăm Trung Quốc năm 1972, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã hứa với chính quyền Trung Quốc ngừng mọi phi vụ trinh sát gần và trên bầu trời Trung Quốc, nhưng cũng phi các vệ tinh chụp ảnh của Hoa Kỳ ở thời điểm năm 1972 dã có khả năng cung cấp các hình ảnh chụp từ bên trên mà không gặp phải nguy cơ mất máy bay, phi công và gây ra các vụ việc quốc tế. Phi vụ cuối cùng của Phi đội 35 do Sungchou "Mike" Chiu thực hiện ngày 24 tháng 5 năm 1974.[27] Hết thời kỳ hoạt động U-2 của Trung Hoa Dân Quốc, với tổng số 19 chiếc U-2C/F/G/R do Phi đội số 35 sử dụng từ năm 1959 tới năm 1974, tổng số thiệt hại 11 máy bay.[25] Ngày 29 tháng 7 năm 1974, hai chiếc U-2R thuộc sở hữu của Trung Hoa Dân Quốc đã bay từ Căn cứ Không quân Taoyuan ở Đài Loan tới Căn cứ Không quân Edwards, California, Hoa Kỳ, để biến chúng thành những chiếc máy bay của Không quân Hoa Kỳ.[27][28][29]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lockheed_U-2 http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://www.airforce-magazine.com/MagazineArchive/P... http://area51specialprojects.com/u2_blackcat_taiwa... http://abcnews.go.com/Technology/story?id=3490523&... http://books.google.com/books?id=0t4tCcCo73oC http://www.military.com/features/0,15240,174427,00... http://www.military.com/features/0,15240,84991,00.... http://www.salon.com/news/feature/2007/08/09/domes... http://www.sciencedaily.com/releases/1998/11/98112... http://www.tv.com/call-to-glory/show/3115/episode....